Sunday, December 31, 2000

Bệnh van tim và thai nghén

Theo thống kê, khoảng 1% số phụ nữ mang thai có các bệnh lý van tim và đi kèm với nâng cao nguy cơ có hiện tượng các biến chứng hiểm nguy đối với mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, nếu như biết cách chăm sóc và điều trị bệnh van tim tại phụ nữ mang thai thì sẽ mang lại cho những bệnh nhân này cuộc sống rất tốt đẹp hơn.

Hẹp van 2 lá: tình trạng van 2 lá (ngăn giữa nhĩ trái và thất trái) bị hẹp. Nguyên nhân thường gặp là thấp tim. Đây là bệnh tim rất đáng để ý tại phụ nữ có thai vì khởi đầu người bệnh thường không có triệu chứng nhưng khi mang thai có thể diễn biến xấu đi do nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim hoặc do nhu cầu đem đến máu nâng cao lên dẫn tới các biến chứng thường gặp là phù phổi cấp, nếu như không được điều trị có thể gây hiểm nguy đến tính mạng cho bà mẹ và thai nhi. Vì thế, sản phụ có bệnh hẹp van hai lá nặng cần được hỗ trợ tư vấn bởi bác sĩ chuyên khoa tim mạch và thường điều trị nong van hoặc phẫu thuật thay van 2 lá trước lúc mang thai.

benh van tim

Sa van 2 lá: bệnh phổ biến, xảy ra khi các van giữa buồng tim trên trái (tâm nhĩ trái) và buồng thấp bên trái (tâm thất trái) không đóng đúng cách. Khi tâm thất trái co, phồng nắp của van (sa) trở lên hoặc quay trở lại tâm nhĩ. Đây là bệnh thường ít gây triệu chứng và không cần thiết điều trị. Đa số phụ nữ bị sa van hai lá có thể mang thai an toàn. Nếu sa van hai lá gây hở van tim nhiều, cần điều trị trước lúc mang thai. Tốt nhất là tuân theo chỉ định của thầy thuốc.

Hở van hai lá: khi van tim bị hở, máu ngược trở lại gây ứ ở tim, tim phải làm việc nhiều hơn để đẩy cả lượng máu ứ đó đi, lâu dần sẽ bị suy yếu. Đây là nguyên nhân do di chứng thấp tim hoặc sa van hai lá. Tùy mức độ hở nặng hay nhẹ, đã có biến chứng hay chưa mà người bệnh có các biểu hiện như: mệt mỏi, khó thở, đau ngực, suy tim, rối loạn nhịp… Ở sản phụ thường dung nạp rất tốt nên đôi lúc quá trình mang thai vẫn diễn ra thông thường (thường gặp tại sản phụ chức năng tim còn bù trừ tốt), ngoài ra ở những sản phụ có hở van hai lá nặng, kèm theo chức năng tim đã suy giảm thì quy trình thai nghén dễ có các biến chứng lúc sinh nở.

Hẹp van động mạch chủ: nguyên do thường gặp là bẩm sinh hoặc do di chứng của thấp tim. Nếu mang thai sẽ tăng nguy cơ biến chứng nặng. Phụ nữ có bệnh hẹp van động mạch chủ cần đi khám khi dự định có thai. Bác sĩ hỗ trợ tư vấn cụ thể những nguy cơ tiềm ẩn của quy trình mang thai. Nếu hẹp van động mạch chủ nặng hoặc đã có triệu chứng như khó thở, đau ngực thì cần khuyên người bệnh không nên có thai cho đến khi được phẫu thuật. Nếu đã mang thai và có hiện tượng các triệu chứng sớm thì nên cân nhắc đình chỉ thai nghén.

benh van tim

Hở van động mạch chủ: sản phụ thường dung nạp rất tốt khi chức năng tim còn trong giới hạn bình thường. Điều trị nội khoa với chính sách ăn giảm muối, dùng thuốc lợi tiểu, thuốc trợ tim cho các trường hợp hở van động mạch chủ nặng, có rối loạn chức năng thất trái và bệnh nhân có triệu chứng trên lâm sàng.

Cần lưu ý một số thuốc trong quá trình thai nghén như thuốc ức chế men chuyển (loại thuốc hay sử dụng điều trị trong hở van động mạch chủ) có nguy cơ dị tật với thai nhi, nên nên thay thế bằng nhóm thuốc khác. Nên trì hoãn phẫu thuật (nếu có thể) đến sau khi sinh để tránh nguy cơ gây sảy thai hay sinh non. Các bệnh nhân có triệu chứng và các bệnh nhân có rối loạn chức năng thất trái nên được theo dõi huyết động trong khi chuyển dạ và sinh.

Van cơ học và thai nghén: những sản phụ có mang van tim nhân tạo (được thay van nhân tạo cơ học trước khi mang thai) cần dùng thuốc chống đông suốt đời và phải tiếp diễn trong suốt thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, các thuốc chống đông có thể dẫn đến bệnh lý thai nhi chỉ cần khoảng từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 12, song song làm nâng cao nguy cơ sảy thai, thai lưu và xuất huyết nội sọ thai. Vì thế, với người bệnh mang van tim cơ học, việc mang thai sẽ dẫn tới nguy cơ to cho cả mẹ và thai nhi. Trong thai kỳ, thai phụ tuyệt đối tuân theo chính sách điều trị của bác sĩ tim mạch và theo dõi định kỳ của bác sĩ sản khoa nhằm phát hiện có hay không dị tật thai nhi.

Lời khuyên của thầy thuốcBệnh van tim là căn bệnh vô cùng nguy hiểm, nhất là với phụ nữ mang thai vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới cả mẹ và thai nhi. Nếu không có chế độ theo dõi nhất là từ bác sĩ, quá trình mang thai có thể diễn ra nhiều nguy cơ. Hiện nay, sự phát triển của khoa học công nghệ đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trong việc mang thai. Tuy nhiên, trước khi quyết định mang thai, bệnh nhân cần đi khám ở các chuyên khoa tim mạch sâu để được các bác sĩ chẩn đoán và giải đáp theo hướng rất tốt nhất.

BS. NGUYỄN TUẤN ANH

Kiểm soát đường huyết khi bị tiểu đường thai kỳ

Tiểu đường thai kỳ là tình trạng mất cân bằng hàm lượng đường huyết trong thời kỳ mang thai và có hiện tượng sau 24 tuần và trong phần to các trường hợp, triệu chứng sẽ giảm sau khi sinh con. Tiểu đường thai kỳ có thể dẫn tới thai lớn và tổn thương khi sinh và nếu hàm lượng đường huyết khi đói vượt quá 150mg%, nguy cơ tử vong bào thai tăng tại tuần thứ 4-8 của thai kỳ. Nó cũng làm tăng nguy cơ bị tiểu đường týp hai của mẹ trong tương lai.

Nguyên nhân nào dẫn tới tiểu đường thai kỳ?

Các chuyên gia cho rằng để cung cấp glucose và dinh dưỡng cho thai nhi phát triển, cơ thể mẹ phát triển kháng insulin ở một mức độ nào đó. Kháng insulin tại mức độ nhỏ là có lợi vì nó cung cấp cho thai nhi lượng glucose cần khi người mẹ bị đói chỉ mất khoảng ngắn. Tuy nhiên, đôi lúc kháng insulin vượt ra khỏi kiểm soát và mẹ bị tiểu đường thai kỳ.

Kiểm soát đường huyết lúc bị tiểu đường thai kỳ

Bạn có thể kiểm soát lượng đường huyết bằng những cách dưới đây:

Tránh ăn quá nhiều bơ sữa trâu và bơ

Các bà mẹ thường có xu thế ăn gấp đôi để đem tới dinh dưỡng cho thai nhi đang phát triển. Mặc dù bơ sữa trâu và bơ là cần yếu cho sức khỏe, nhưng bạn nên tránh ăn quá nhiều những sản phẩm chứa nhiều chất béo bão hòa tương tự ví dụ bạn đang bị tiểu đường thai kỳ. Các chuyên gia khuyến nghị hạn chế hấp thu thực phẩm chiến rán và nên ăn nhiều chất béo không bão hòa như dầu oliu và các loại hạt.

Ăn ít nhất 6 bữa nhỏ

Tránh ăn 2-3 bữa lớn và chia thành nhiều bữa nhỏ để bạn có thể ăn cả ngày. Ăn các bữa nhỏ hơn trong ngày bảo đảm sự bổ sung dinh dưỡng liên tục cho thai nhi đang phát triển và ngăn ngừa dao động hàm lượng đường huyết. Nhớ tư vấn bác sĩ dinh dưỡng liên tục vì điều này sẽ giúp bạn kiểm soát tiểu đường thai kỳ tốt hơn.

Hạn chế đồ ăn ngọt

Bạn có thể thèm đồ ăn ngọt sau mỗi bữa ăn không những thế nên giảm thiểu những đồ ăn này. Đồ ngọt có thể làm nâng cao hàm lượng đường huyết 1 cách đột ngột, bởi vậy có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe của mẹ và bé.

Tập luyện hàng ngày

Có 1 hiểu lầm phổ biến là không được tập luyện và hạn chế hoạt động thể chất trong thời kỳ mang thai. Thực tế là tập luyện tại mức trung bình như đi bộ 40 phút hàng ngày giúp kiểm soát hàm lượng đường huyết.

Tuân thủ lời nguyên của bác sĩ

Điều cần phải có là cần biết về các biến chứng của tiểu đường thai kỳ và tư vấn bác sĩ ngay lập tức. Nên nhớ rằng mất kiểm soát hàm lượng đường huyết có thể gây hại cho bạn cũng như cho bé. Hãy tuân thủ lời khuyên của bác sĩ và sử dụng thuốc theo đơn.

BS Thu Vân

(theo Univadis/ THS)

Không nên chủ quan với bệnh viêm não Nhật Bản

Ra quân phun thuốc khử trùng ở các hộ gia đình, bộ phận chống bệnh Viêm não Nhật Bản B

Ra quân phun thuốc khử trùng tại các hộ gia đình, bộ phận chống bệnh Viêm não Nhật Bản B

Vào giai đoạn mùa hè, mưa nhiều, người dân ở vùng nông thôn bắt đầu trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm…, đặc biệt là những đàn lợn tại hộ gia đình. Do ý thức của người dân chưa cao, chuồng trại quy mô nhỏ lẻ không được phun thuốc khử trùng đã tạo điều kiện thuận tiện cho việc lưu hành virus VNNB trong tự nhiên, từ đó dẫn tới sự lây truyền virus VNNB sang người và tạo thành dịch ở cộng đồng.

Dễ bùng phát thành dịch

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Sở y tế, Trung tâm y tế dự bộ phận tỉnh Cà Mau; Trung tâm y tế dự bộ phận TP Cà Mau ban hành các công văn cho khoa kiểm soát dịch bệnh, các trạm y tế xã phường triển khai công tác phòng chống bệnh VNNB ngay từ đầu năm, nhằm hạn chế các ca mắc; dự trù kinh phí, hóa chất, trang thiết bị, sẽ xử lý kịp thời, triệt để khi có ca mắc xảy ra.

Bác sĩ Phạm Hồng Quân, Phó Giám đốc Trung tâm y tế dự bộ phận TP Cà Mau cho biết, bệnh VNNB là bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây ra bởi virus VNNB, lây truyền từ 1 số loại động vật có vú và loài chim sang người do muỗi truyền. Bệnh cốt yếu gây tổn thương hệ thần kinh trung ương, dễ dẫn tới tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề, đặc biệt đối với trẻ em.

Điều trị ca mắc VNNB B tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Cà Mau

Điều trị ca mắc VNNB B tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Cà Mau

Hiện nay, ổ chứa mầm bệnh trong thiên nhiên của bệnh VNNB là một số loài chim hoang dã như chim, cò, tu hú… Các loài chim di trú đó có thể mang virus mầm bệnh từ vùng này qua vùng khác. Trong số các loài động vật có vú thì loài lợn là vật chủ chính cho quy trình khuyếch đại virus, là ổ chứa cần phải có và cũng là nguồn truyền nhiễm chính cho người. Lý do vì lợn có tỷ lệ mang virus VNNB là rất cao, thời gian mang kéo dài và còn vì loài muỗi Culex truyền VNNB rất thích hút máu lợn. Lợn nhiễm virus thường lây truyền cho các động vật khác và cả con người.

Theo Trung tâm y tế dự phòng TP Cà Mau, từ đầu năm đến nay ghi tiếp nhân 80 ca mắc bệnh tay chân miệng, 88 ca mắc sốt xuất huyết; hiện tại bệnh VNNB B đã xuất hiện ở những nơi lân cận TP Cà Mau, nguy cơ bùng phát thành dịch là rất cao, biện pháp tốt đặc biệt tiêm vắc xin cho trẻ. “Các bậc phụ huynh hãy đưa tất cả trẻ em từ 12 tháng tới 24 tháng tuổi tới trạm y tế xã phường để tiêm ngừa, bộ phận bệnh VNNB đủ 3 mũi; sau đó tiêm nhắc lại 3 năm tới khi trẻ được 15 tuổi. Việc tiêm vacsin VNNB B đúng lịch, đủ liều là biện pháp dự phòng có hiệu quả và khả thi nhất”. Bác sĩ Phạm Hồng Quân thông tin.

Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu

Tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Cà Mau, từ đầu năm đến nay ghi nhận 7 trường hợp hội chứng não cấp (VNNB B). Theo Bác sĩ Trần Thiên Lý, Trưởng khoa Hồi Sức tích cực – Chống độc Nhi, bệnh VNNB có khả năng tử vong rất cao, nếu như 1000 ca Viêm não thì khoảng 100 ca VNNB B, theo thống kê trẻ mắc VNNB B là dưới 10 tuổi, 90% là trẻ không tiêm ngừa.

Phần lớn người bị nhiễm virus VNNB B đều ở thể ẩn, chỉ rất ít có triệu chứng lâm sàng, với mô tả rất đa dạng, thay đổi từ nhẹ như cảm cúm thông thường đến nặng và rất nặng, gây tử vong. Cứ 1 trường hợp điển hình thì có khoảng 200 tới 300 thể ẩn. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, con số này giao động từ 20 – 1.000 trường hợp thể ẩn/1 điển hình.

Bác sĩ Trần Thiên Lý cho biết thêm: “Biểu hiện của bệnh VNNB là bệnh nhân có hội chứng nhiễm trùng, nhiễm độc như là: Sốt, đâu đầu, nôn ói…; hội chứng thần kinh là rối loạn ý thức nhiều mức độ không giống như: Trẻ li bì, lơ mơ và nặng nữa là rối loạn thần kinh là suy hô hấp, suy tuần hoàn. Về vấn đề điều trị thì hiện nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là chỉ hỗ trợ hô hấp, chống phù não, điều trị triệu chứng và điều trị chống bội nhiễm”.

Nếu được chuẩn đoán sớm, điều trị tích cực có thể hạ chế tử vong, nhưng tỷ lệ để lại di chứng của VNNB B thường khá cao. Khoảng 30% số bệnh nhân sống sót có rối loạn vận động; khoảng 20% rối loạn tiếp nhân thức và ngôn ngữ, 20% xuất hiện động kinh muộn. Di chứng của bệnh nhi thường chiếm tỷ lệ cao hơn người lớn mắc bệnh.

Để bộ phận chống bệnh VNNB B và các bệnh khác ở trẻ trong 6 tháng cuối năm 2017. “Tăng cường tuyên truyền trên trạm phát thanh xã phường các biện pháp bộ phận chống VNNB; giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, phát hiện sớm ca mắc, xử lý kịp thời, triệt để, tránh lây lan trong cộng đồng; nhân viên y tế ấp khóm vận động các bậc phụ huynh đưa trẻ tới các trạm y tế để tiêm đủ liều VNNB theo lịch của chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Trong năm học mới 2017 – 2018, sẽ phun hóa chất toàn bộ các điểm trường trên địa bàn TP. Bác sĩ Phạm Hồng Quân nhấn mạnh.

Bác sĩ Trần Thiên Lý lưu ý, người dân cần thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, diệt muỗi, ổ bọ gạy, lăng quăng; chuồng trại chăn nuôi phải dời ra xa nhà. Do muỗi Culex thường hoạt động về đêm, vì vậy các bậc phụ huynh cần mắc màng cho trẻ lúc ngủ, nhất là tại các vùng nông thôn; vệ sinh trong ăn uống. Khi trẻ có dấu hiệu như: Sốt cao liên tục, đau đầu, nôn ói, rối loạn ý thức… thì cần đến trung tâm y tế sắp nhất để điều trị và theo dõi. Quan trọng đặc biệt các bậc phụ huynh đưa con em mình tới các cơ sở y tế để tiêm vắc xin phòng bệnh.

Phạm Nhật Minh

Cách chăm sóc bệnh nhân sau đột quỵ

Vai trò của người chăm sóc rất quan trọng. Hiểu biết về đột quỵ cũng như cách chăm sóc sau khi bị đột quỵ có ý nghĩa nhu yếu trong quy trình phục hồi chức năng cho bệnh nhân.

Đột quỵ xảy ra do cục máu đông làm nghẽn lòng động mạch làm thiếu máu não hoặc gây chảy máu trong não. Việc điều trị ban đầu đối với đột quỵ bao gồm dùng thuốc để phá vỡ cục máu đông, ngăn chặn thiệt hại thêm cho não và phục hồi các ứng dụng não.

Điều gì xảy ra sau đột quỵ?

Các chức năng cơ thể bị ảnh hưởng: Cơ yếu đi và có thể liệt nửa người. Điều này gây trở ngại cho sự thăng bằng, gây mệt mỏi và giảm vận động; khó khăn trong việc nuốt; tầm nhìn bị thay đổi; khó khăn trong việc kiểm soát bàng quang và ruột làm rối loạn tiểu luôn tiện và đại tiện.

Rối loạn giao tiếp: Một trong những rối loạn giao tiếp phổ biến nhất là chứng mất ngôn ngữ, khó khăn trong nói, viết, đọc hoặc thậm chí hiểu được những gì người khác đang nói lúc giao tiếp.Tập phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau đột quỵ. Ảnh:Trần Minh

Tập phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau đột quỵ. Ảnh:Trần Minh

Suy giảm trí nhớ và tư duy: Đột quỵ thường ảnh hưởng tới trí nhớ. Nếu ảnh hưởng đến vùng não phải, bệnh nhân có thể bị các rối loạn vào không gian - nhận thức, làm suy yếu khả năng đánh mức chi phí kích thước, khoảng cách, tốc độ, vị trí hoặc cấu trúc. Biểu hiện không thể viết các chữ cái và con số, không nhận biết được phía bên trong hoặc bên ngoài, mặt trái hoặc mặt phải của quần áo. Thậm chí một số bệnh nhân không thể xác định được họ đang đứng hoặc đang ngồi.

Thay đổi cảm xúc: Một trong những đánh tráo sau đột quỵ là những trảo đổi vào cảm xúc. Thay đổi cảm xúc có thể bao gồm lo âu, trầm cảm, dễ cáu kỉnh và thiếu kiểm soát cảm xúc. Khi đột quỵ ảnh hưởng não vùng trán hoặc vùng thân não có thể dẫn đến mất kiểm soát cảm xúc. Biểu hiện có thể cười và sau đó khóc òa đột ngột, thường diễn ra về ban đêm, nhưng có thể xảy ra ban ngày, nhất là là khi bệnh nhân nằm lâu trên giường.

Thay đổi hành vi: Khi đột quỵ̣ ảnh hưởng bên não trái có thể làm cho bệnh nhân chậm chạp, vô tổ chức hay quá thận trọng, nhất là trong các hoạt động mới. Thái độ hay do dự và lo lắng, khác nhau như cách người bệnh ứng xử trước khi bị đột quỵ. Ngược lại, lúc đột quỵ ảnh hưởng ở não phải có khả năng làm bệnh nhân có hành động nhanh nhất và bốc đồng hơn. Họ có thể bỏ qua những thách thức và cố gắng để thực hiện các hoạt động vượt quá khả năng của họ.

Cách chăm sóc

Giảm nguy cơ đột quỵ tái phát: Một bệnh nhân đã bị đột quỵ có nguy cơ bị đột quỵ tái phát, ví dụ không được điều trị thích hợp và thiếu kiểm soát. Để giảm nguy cơ này cần đảm bảo bệnh nhân sử dụng thuốc đúng cách, thực hiện đúng các bài tập phục hồi và tham khảo ý kiến bác sĩ thường xuyên.Cục máu đông làm nghẽn lòng động mạch gây nhồi máu não.

Cục máu đông làm nghẽn lòng động mạch gây nhồi máu não.

Nắm các thông tin liên quan bệnh và thuốc men: Khi chăm sóc người thân bị đột quỵ, tốt nhất cần trao đổi với bác sĩ để tìm hiểu những gì xảy ra sau 1 cơn đột quỵ. Tìm hiểu các loại thuốc đã kê toa và tác động của từng loại thuốc, những điều chỉnh cấp thiết tại nhà để thích ứng và giúp bệnh nhân hồi phục.

Tìm hiểu các nhân tố liên quan để giúp bệnh nhân phục hồi: Mỗi bệnh nhân bị đột quỵ có các đặc điểm khác nhau, nhưng 1 số nhân tố chung quyết định sự phục hồi. Bao gồm các nhân tố sau: vị trí của đột quỵ tại não; mức độ tổn thương não; tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trước lúc đột quỵ; khả năng di chuyển của bệnh nhân; hỗ trợ của người chăm sóc.

Tùy thuộc vào các yếu tố nêu trên, phục hồi có thể mất một thời gian ngắn hoặc dài hơn. Nhiều bệnh nhân đạt được sự phục hồi đáng kể trong vòng 3-4 tháng sau khi đột quỵ. Nhưng tại người khác, phục hồi có thể kéo dài đến hai năm sau đột quỵ.

Áp dụng vật lý trị liệu là bắt buộc đối với phần nhiều trường hợp sau đột quỵ: Khi bệnh nhân đột quỵ có những biểu hiện: khó khăn trong việc di chuyển; thiếu thăng bằng dẫn tới té ngã; không có khả năng tham dự các hoạt động xã hội; không có khả năng đi bộ hơn 6 phút mà không nghỉ, người chăm sóc cần tham vấn bác sĩ chuyên khoa thần kinh hoặc chuyên gia phục hồi chức năng để quyết định vận dụng điều trị cho người bệnh.

Điều trị ngay khi phát hiện trầm cảm: Khoảng 30-50% bệnh nhân sẽ bị trầm cảm tại 1 số thời điểm trong quá trình phục hồi. Trầm cảm có thể ảnh hưởng tới sự phục hồi của bệnh nhân. Khi người bệnh có những dấu hiệu trầm cảm như cảm thấy tuyệt vọng, mất hứng thú trong các thị hiếu trước đây, những đánh tráo trong sự thèm ăn và rối loạn giấc ngủ... cần hỏi ý kiến bác sĩ chuyên khoa để điều trị ngay.

Tóm lại, chăm sóc bệnh nhân sau khi bị đột quỵ là một quá trình kéo dài, kiên trì và phải có kiến thức cơ bản. Chăm sóc hiệu quả và khống chế tốt các nhân tố nguy cơ trên bệnh nhân đột quỵ vẫn là chiến lược tối ưu hiện nay, nhằm tránh đột quỵ tái phát và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân đột quỵ.

TS.BS. Lê Thanh Hải

06 nguyên tắc vàng chăm sóc trẻ bị rôm sảy, mụn nhọt và các bệnh ngoài da

Đừng để bệnh nhỏ hóa to

Rôm sảy, mụn nhọt là những chứng bệnh ngoài da chiếm tỷ lệ cao nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Đây cũng là những bệnh hầu như mọi trẻ đều có thể gặp ít nhất 1 vài lần trong những năm tháng đầu đời.

Ảnh minh họa

Ở trẻ em, rôm sẩy thường mọc thành từng đám và tập trung ở những vùng tiết nhiều mồ hôi, cụ thể như: sau đầu, cổ, vai, trán, ngực và lưng. Trong lúc đó, mụn nhọt có thể có hiện tượng bất kì đâu trên cơ thể trẻ nhưng vị trí “đóng quân” cốt yếu là vùng da có rất nhiều lông tóc, mồ hôi hoặc các điểm thường xuyên bị ma sát, đặc trưng là cổ, mặt, đùi, nách và mông.

Theo bác sỹ cao cấp Nguyễn Văn Lộc – Nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi TW, vẫn có 1 số trường hợp trẻ tự khỏi rôm sảy, mụn nhọt nhưng rất hy hữu. Do đó, các mẹ tuyệt đối không chủ quan, thờ ơ khi con mắc những bệnh này. Thay về đó, cần theo dõi sát sao, chăm sóc da cho trẻ đúng cách và lựa chọn đúng phương pháp điều trị.

Bác sỹ Lộc cho biết đã chứng kiến gần như sự việc đau lòng xuất phát từ những sơ xuất, chủ quan của cha mẹ. Có trường hợp trẻ bị rôm sảy được mẹ đắp, tắm bằng các loại lá nên bị nhiễm trùng da, có trẻ bị mụn nhọt biến thành mụn mủ, lở loét do không được chữa trị…

Ảnh minh họa

Từ những thực tế trên, bác sỹ Lộc kết luận, ngoài việc khiến trẻ khó chịu, mệt mỏi, quấy khóc, rôm sảy, mụn nhọt còn gây ra những biến chứng hiểm nguy như viêm da, nhiễm trùng da, nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm phổi… nếu như không được chữa trị kịp thời.

Tuyệt chiêu chăm sóc lúc trẻ bị rôm sảy, mụn nhọt và các bệnh ngoài da

Có thể thấy, việc chăm sóc da khi trẻ bị rôm sảy, mụn nhọt cũng như các bệnh vào da khác có vai trò rất quan trọng. Chăm sóc đúng cách sẽ giúp đẩy lùi nhanh bệnh, ngược lại sẽ khiến tình trạng bệnh chuyển biến xấu, khó chữa hơn. Bởi vậy, khi phát hiện con mắc rôm sảy, mụn nhọt các mẹ cần bình tĩnh và thận trọng, sau nữa, đừng quên ghi nhớ tất cả những lưu ý sau:

Nguyên tắc 6 KHÔNG lúc con mắc bệnh rôm sảy, mụn nhọt:

- Không cho trẻ tiếp xúc với bụi bẩn, ẩm ướt.

- Không chà xát, gãi, nặn vùng da bị rôm sảy, mụn nhọt khiến da lở loét, sưng đỏ và viêm nhiễm.

- Không tiếp tục tắm cho trẻ sản phẩm chứa chất bảo quản, chất tạo bọt, chất tẩy rửa và hóa chất kích ứng, những thành phần này sẽ làm tình trạng bệnh trầm trọng hơn.

- Không bôi phấn rôm lên vùng da mọc rôm sảy, mụn nhọt sẽ làm bít các lỗ chân lông da của trẻ.

- Không tắm, đắp cho trẻ các loại lá không rõ nguồn gốc: Những thảo dược này có thể chứa tạp chất, bụi bẩn, sâu bọ, vi khuẩn gây kích ứng da.

- Không tự ý bôi kem hoặc cho trẻ uống thuốc lúc chưa có sự chỉ định từ bác sỹ.

Ảnh minh họa

Nguyên tắc 6 NÊN lúc con mắc bệnh rôm sảy, mụn nhọt:

- Cho trẻ tại nơi sạch sẽ, thoáng mát.

- Mặc quần áo rộng rãi, có chất liệu thấm hút mồ hôi rất tốt cho trẻ.

- Cắt móng tay, móng chân cho trẻ thường xuyên.

- Vệ sinh sạch sẽ sau mỗi lần trẻ ăn, uống hoặc đi tiểu tiện, đại tiện.

- Cho trẻ uống nhiều nước, sữa, bổ sung thực phẩm giàu dinh dưỡng.

Sử dụng bột tắm từ thảo dược, nổi trội trong số này là bột pha nước tắm trẻ em Nhân Hưng. Được chiết xuất từ các thành phần thiên nhiên Tinh chất Hoàng liên, Berberin, Chlorophyll, tinh dầu Mùi… cùng khả năng kháng khuẩn, kháng nấm, chống viêm, giảm ngứa, làm sạch da hữu hiệu, sản phẩm là phương án an toàn và hiệu quả giúp trẻ thoát khỏi rôm sảy, mụn nhọt cũng như hăm da, mẩn ngứa nhanh chóng. Bột pha nước tắm trẻ em Nhân Hưng còn nhất là an toàn, gần gũi với trẻ nhỏ do có “4 không”: không chất bảo quản, chất tạo bọt, chất tẩy rửa và hóa chất kích ứng.

Bàn vào công dụng của Bột pha nước tắm trẻ em Nhân Hưng, chuyên gia cho rằng: Đây là sản phẩm có tác dụng se da rất nhanh, đặc biệt là giúp ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn, siêu vi trùng, nấm. Do đó, những bà mẹ chưa sử dụng thì nên dùng bột tắm này tắm cho trẻ, đặc biệt là với những trẻ bị bệnh ngoài da.

Cùng chia sẻ và xem thêm nhiều kinh nghiệm chăm sóc lúc trẻ mắc bệnh ngoài da tại:Website: http://bottamnhanhung.vn/Fanpages: https://www.fb.com/bottamnhanhung.vn/Hotline giải đáp miễn phí: 1800 6960XNQC: 027/17/XNQCMP-YTHN

Hạn chế bệnh cúm ở người cao tuổi

Lã Hải Hà(Nghệ An)

Thời tiết lạnh, nhất là là khi giao mùa, các bệnh đường hô hấp được dịp tung hoành. Trong các bệnh đường hô hấp thì cúm được đánh mức giá là nhất là hiểm nguy đối với người cao tuổi (NCT). Khi virut thâm nhập vào màng nhầy đường hô hấp, sau thời gian ủ bệnh từ 1-3 ngày, bệnh nhân sẽ thấy ngay dấu hiệu điển hình của bệnh: sốt cao, rùng mình, viêm họng hoặc viêm phế quản. Nếu bệnh nhân có sức khoẻ tốt và có cách điều trị thích hợp, bệnh sẽ thoái lui sau 7 ngày. Nhưng ví dụ sức khoẻ kém, lại không có biện pháp phòng ngừa và điều trị tích cực sẽ dẫn đến viêm phế quản cấp, viêm xoang do bội nhiễm vi khuẩn và viêm phổi, thậm chí tử vong.

Cách rất tốt nhất để bộ phận tránh bệnh cúm là NCT cần có những biện pháp tích cực nhằm nâng cao cường hệ miễn dịch, lời khuyên trước tiên là cố gắng chính sách ăn. NCT cần tăng cường thêm chất đạm từ động vật và thực vật. Nên ăn nhiều rau trái để có đủ các vitamin và khoáng chất cần phải có cho sức khoẻ. Nên uống nhiều nước để nâng cao cường bàn luận chất. NCT nên tập thể dục hàng ngày, nhất là các môn như thái cực quyền, khí công… để tăng cường sức khoẻ và chống chọi lại với bệnh tật. Nên phải giữ ấm vùng mũi họng, cổ, ngực, tay và chân. Vào sáng sớm, sau lúc ngủ dậy, nên uống một cốc nước nóng với lát chanh và vài lát gừng để ấm bụng và chống cảm cúm.

ThS. Hà Hùng

Phòng ngừa tăng huyết áp ở tuổi mãn kinh

Thời gian đầu của chứng nâng cao huyết áp (THA) có thể kéo dài 2-3 năm, giai đoạn sau mãn kinh huyết áp tương đối ổn định. Tuy vậy, 1 số người chỉ trong khoảng 1 thời gian ngắn huyết áp đã nâng cao cao xuất hiện đau sau gáy hoặc đau nửa đầu bước về giai đoạn thực sự của chứng bệnh THA.

Tại sao đến tuổi mãn kinh huyết áp lại tăng cao

Sự thay đổi nội tiết của phụ nữ mãn kinh: Trong cơ thể có phần lớn loại hormon. Các hormon liên quan đến hệ sinh dục của phụ nữ cốt yếu bao gồm hormon giới tính (estrogen) hormon kích thích nang, hormon kích thích sự rụng trứng. Khi mãn kinh, vai trò của hormon sinh dục giảm đi. Mọi phụ nữ đều liên quan đến diễn biến tự nhiên này. Khi hàm lượng hormon sinh dục tụt giảm làm rối loạn thảo luận chất trong cơ thể, làm gia nâng cao nguy cơ xơ cứng động mạch và các bệnh lý tim mạch. Đây là 1 nguyên do chính gây ra THA.

Hệ thần kinh giao cảm mất cân bằng: Hoạt động của hệ thần kinh giao cảm nâng cao cao làm nâng cao cảm giác ăn ngon miệng, dễ béo phì và nâng cao cân rất nhanh. Béo phì ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của phụ nữ mãn kinh. Nó làm nâng cao áp lực với tim, gây bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường, xơ cứng động mạch. Hormon của hệ thần kinh giao cảm gây co mạch, nhất là là các mạch máu nhỏ. Điều đó làm cho sự mang đến máu đến các cơ quan trong trở lên khó khăn và dòng máu lưu thông trong lòng mạch dưới áp lực lớn gây THA. Quá trình này xảy ra chỉ cần khoảng dài sẽ kéo theo các cơ chế khác làm trầm trọng thêm tình trạng THA như THA do chức năng thận, có hiện tượng tình trạng giữ nước, mạch nhanh… Muộn hơn sẽ xuất hiện các biến chứng tim mạch, rối loạn chuyển hoá và rối loạn insulin dẫn đến bệnh tiểu đường.Tăng huyết áp và biến chứng suy thận.

Tăng huyết áp và biến chứng suy thận.

THA do các bệnh tật khác tạo nên: Bước vào tuổi mãn kinh, do hormon estrogen tụt giảm, nội tiết thay đổi, môi trường bên trong cơ thể biến đổi, chức năng thần kinh thực vật mất thăng bằng dễ dẫn đến nhiều bệnh lý trong thời kỳ này như chứng tiểu đường, loãng xương xuất hiện đau lưng, dễ gãy xương và các bệnh lý hệ tim mạch dẫn đến huyết áp cao. Huyết áp cao, tiểu đường và chứng đau nhức do loãng xương là những chứng bệnh riêng biệt, ngoài ra chúng cũng thường đi đôi. Có lúc vừa THA vừa tiểu đường hay vừa THA vừa đau nhức.

Như phần trên đã nói, bệnh thận cũng là 1 nguyên do đưa đến THA. Thận có bệnh bài tiết ra nhiều chất làm huyết áp nâng cao lên. Trong bệnh viêm thận cấp tính nếu điều trị dứt bệnh là huyết áp sẽ xuống, còn là bệnh mạn tính thì kéo theo THA lâu dài. Do đó không chỉ trị THA, người mắc chứng THA cần phải bác sĩ kiểm tra sức khỏe tổng thể để điều trị hết căn nguyên gây bệnh.

Yếu tố tâm lý: Trạng thái stress căng thẳng trường diễn dẫn tới sự phá vỡ các cơ chế bảo vệ sức khỏe, đặc biệt gây nên các rối loạn tim mạch. Áp lực công việc càng lớn, cá nhân càng tại tình trạng căng thẳng thường trực gây tai hại cho huyết áp. Trong trạng thái stress: huyết áp và nhịp tim nâng cao cao, điều này tạo nên gánh nặng cho tim, tim phải làm việc căng thẳng hơn và nâng cao nguy cơ mắc bệnh. Trong trạng thái stress huyết áp động mạch tăng, stress có ảnh hưởng lên thành phần hoá học của máu, làm nâng cao hàm lượng cholesterol xúc tiến phát triển xơ vữa động mạch. Khi đó các động mạch vành tim bị hẹp lại, hạn chế sự đem tới máu cho cơ tim gây nên bệnh thiếu máu cơ tim, suy tim.

Điều trị và bộ phận bệnh

Có nhiều nguyên do gây ra THA. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, liệu pháp hormon thay thế không thể giúp được phụ nữ tại tuổi mãn kinh bộ phận ngừa chứng THA và sự phát triển của các bệnh lý tim mạch vì ở độ tuổi này, trong cơ thể phụ nữ không những lượng hormon sinh dục bị giảm mà còn bị giảm cả tính nhạy cảm với các hormon này. Liệu pháp hormon thay thế chỉ được dùng với liều ngắn ngày nhằm gặt đi các triệu chứng khó chịu của tiền mãn kinh.

Những phụ nữ đã bị mắc bệnh huyết áp cao lưu ý: Kiểm soát hàm lượng cholesterol, glucose máu và các chỉ số huyết áp ở mức độ cho phép (không vượt quá 140/90 mmHg, kết hợp bị tiểu đường thì không vượt quá 130/90 mmHg).

Có thể dùng một số thuốc có tác dụng điều hoà hoạt động của hệ thần kinh giao cảm, thông qua đó có tác dụng giảm huyết áp ở giai đoạn tiền mãn kinh.

Công việc dự phòng THA là càng sớm càng tốt: giảm sức ép lên thần kinh - huyết áp giảm. Học cách điều hòa cuộc sống để giảm nguy cơ bị tác động của stress khiến huyết áp nâng cao cao ảnh hưởng tai hại đến các cơ quan khác trong cơ thể (não, tim, thận…). Tăng cường hoạt động thể lực bằng các bài tập rèn sức bền như đi bộ nhanh, chạy bước nhỏ, thể dục nhịp điệu, đạp xe đạp vừa có tác dụng cố gắng chức năng tim mạch, vừa có tác dụng giảm cân do mỡ dự trữ trong cơ thể được đốt cháy để mang đến năng lượng cho cơ thể vận động.

Phụ nữ giai đoạn tiền mãn kinh cần điều chỉnh chế độ ăn uống cân bằng, khoa học, hợp lý: ăn đủ chất, thức ăn đa dạng, hạn chế dùng muối ăn: không quá 5- 6 gam/ ngày, sử dụng dầu thực vật để chế biến thức ăn. Không ăn thịt mỡ, da động vật, hạn chế các đồ ăn có chứa nhiều cholesterol như trứng gia cầm, tim, gan động vật, bơ, kem, socola. Ăn nhiều cá, đậu trong tuần.

Ăn các thức ăn có chức nhiều vitamin E, C, A, B6, B12, acid folic và axít béo không no omega- 3 để bảo vệ thành mạch máu trước nguy cơ hình thành các mảng xơ vữa.

Axít béo không no omega-3 có trong cá, đặc biệt là các loại cá biển (cá hồi, cá thu, cá ngừ, cá trích, cá mòi.

Tóm lại, hiểu vào bệnh để phòng bệnh là có thể khống chế được huyết áp. Phòng ngừa THA bằng chế độ ăn uống phù hợp, tập luyện đều đặn và lối sống tích cực.

TS. Tạ Tiến Phước

Trữ Ma Căn

Theo YHCT, Trữ Ma Căn (tên khoa học Boehmeria nivea L) là một vị thuốc quý được sử dụng rộng rãi làm thuốc an thai ( đang có thai ra huyết và đau bụng) hoặc làm thuốc chữa sa dạ con hiệu nghiệm từ hàng trăm năm trước.

Dược liệu trữ ma căn có tác dụng trị động thai và an thai (hình minh họa)

Cây trữ ma căn được mọc nhiều ở vùng trung du, cây nhỏ, cao 1m hay hăn, gốc hóa gỗ, cành non và cuống lá màu tím đỏ, có lông. Lá mọc so le, có cuống, mép khía răng, mặt dưới có lông trắng bạc. Hoa đực và hoa cái tụ tập thành bông kép, ở kẽ lá, quả bễ có đài tồn tại.

Các bộ phận đầu của cây gai có vị ngọt tính hàn, không độc:

- Rễ, củ gai: có tác dụng lương huyết (mát máu), chỉ huyết (cầm máu), an thai, thanh nhiệt, giải độc. Dùng chữa các chứng xuất huyết do huyết nhiệt (huyết nhiệt bức huyết vọng hành), thai động bất an, thai lậu hạ huyết, nhiệt độc ung thũng.

- Lá gai: tác dụng lương huyết (mát máu), chỉ huyết (cầm máu), chỉ huyết, tán ứ. Dùng chữa khạc ra máu, nôn ra máu, tiểu luôn tiện ra máu, hậu môn sưng đâu, đao thương xuất huyết, nhũ ung sơ khởi (áp xe vú mới phát). Dùng sắc uống hay nghiền mịn hoặc giã vắt lấy nước uống hoặc giã nát hoặc nghiền nhỏ đắp dùng ngoài.

Để dùng hiệu quả dược liệu đúng định lượng, thành phần và chất lượng tốt, thai phụ có thể kết hợp dùng dược liệu trữ ma căn cùng nhiều thành phần vitamin, dưỡng chất trong quy trình mang thai.

UNI PRENATAL DIAMOND

AN THAI GIẢM NGHÉN HIỆU QUẢ

Sản phẩm Uni Prenatal Diamond bổ sung thành phần kết hợp cùng các vitamin, thành phần dưỡng chất thiết yếu cho phụ nữ mang thai:FISH OIL (Dầu cá ngừ nhập khẩu nhập khẩu Peru),AQUAMIN F (canxi hữu cơ chiết xuất từ tảo đỏ biển Iceland), Sắt (III) Hydroxide Polymaltose, Acid Folic cao, FOS và Inulin.. giúp bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ và thai nhi nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao cho phụ nữ trong quy trình mang thai và trong thời kỳ cho con bú.

Uni Prenatal Diamond dùng hiệu quả cho:

- Phụ nữ đang mang thai ăn uống kém do nghén, chế độ ăn kiêng.

- Phụ nữ đang mang thai có cơ địa và sức khoẻ trước đó yếu.

- Phụ nữ đang mang thai nâng cao cân chậm, hoặc sút cân.

- Phụ nữ đang mang thai có chính sách dinh dưỡng không cân đối.

- Bà mẹ đang thời kỳ cho con bú.

Sản phẩm của CT TNHH Dược phẩm Unipharma

Số QC: 01462/2017/ATTP-XNQC

Sản phẩm không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Phát hiện sớm rối loạn tâm thần sau sinh

Thực tế tại một số phụ nữ sau khi sinh có thể có các biểu hiện trạng thái bệnh lý tâm thần với dấu hiệu rối loạn hành vi cảm xúc, ý thức hay tư duy. Chúng thường xảy ra một cách đột ngột ngay sau lúc sinh hoặc 1 vài ngày sau lúc sinh.Các rối loạn hành vi, cảm xúc và ý thức có hiện tượng về thời kỳ người phụ nữ sinh đẻ thường là những trạng thái rối loạn tâm thần nặng. Khi người mẹ mắc bệnh lý này sẽ không có khả năng chăm sóc con chu đáo, thậm chí có khi còn có những hành vi cải thiện làm ảnh hưởng nguy hại đến con. Vì vậy, nếu người mẹ có rối loạn tâm thần có hiện tượng sớm sau khi sinh hoặc diễn ra muộn sau lúc sinh 1 cách đột ngột, cần được được phát hiện, chẩn đoán và điều trị hiệu quả...

Rối loạn tâm thần sớm sau sinh

Sau lúc sinh, người phụ nữ có thể có một số rối loạn tâm thần xuất hiện sớm gồm bệnh lý trầm cảm không điển hình và và trầm cảm điển hình.

Trầm cảm không điển hình:

Thường xảy ra về ngày thứ ba sau lúc sinh, người mẹ đang từ trạng thái vui vẻ, phấn khởi sau sinh sẽ chuyển sang tâm trạng lo buồn, sợ hãi cho khả năng nuôi con của mình, lo lắng cho sự hoàn thiện và an toàn của đứa con. Rối loạn có thể làm xuất hiện cơn chảy nước mắt không giải thích được nguyên nhân hoặc được giải thích là do sự thay đổi nội tiết diễn ra nhanh nhất sau sinh và sự đánh tráo tâm lý làm cho người mẹ quá lo lắng, quá quan tâm đến số phận và cuộc sống của đứa con. Đồng thời cũng có người mẹ quá nhạy cảm với các nhu cầu được chăm sóc, bế ẵm, nuôi dưỡng, ăn uống của đứa con như thấy con cựa mình hơi mạnh, uốn rướn người, hay khóc là đã lo lắng sợ con mình bị đói, bị lạnh hoặc bị bệnh gì đó mà mình chưa biết.

Hội chứng này có thể tự biến mất đi sau vài ngày tùy thuộc vào sự để ý chăm sóc, nâng đỡ vào mặt tình cảm của gia đình, các người thân và những người tại chung quanh đối với người mẹ. Thực tế trạng thái trầm cảm không điển hình thường diễn ra nhẹ và lành tính. Điều cấp thiết đặc biệt người mẹ phải được chăm sóc, hướng dẫn, giải thích, hỗ trợ tư vấn rõ để có kiến thức chăm sóc và nuôi dạy con ngay từ những tháng cuối của thời kỳ mang thai và tiếp diễn được nhân viên y tế, nữ hộ sinh giúp đỡ theo dõi, hướng dẫn chăm sóc và nuôi con sau lúc sinh.

Trầm cảm điển hình:

Các triệu chứng trầm cảm điển hình thường tiến triển không rầm rộ nên một số nhà khoa học cho rằng về mặt dịch tễ học khó có thể đánh mức chi phí đúng mức. Trên thực tế có thể gặp khoảng 10 - 20% các trường hợp trầm cảm được ghi nhận sau lúc người phụ nữ sinh đẻ chỉ cần khoảng từ 9 - 15 tháng.

Người mẹ sau lúc sinh đẻ mắc trầm cảm điển hình có những biểu hiện lâm sàng như: cảm xúc dễ thay đổi, dễ nổi cáu giận, có dấu hiệu suy nhược, có cơn chảy nước mắt; luôn luôn có cảm giác bất lực, quá lo lắng vào việc nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái; đôi khi quá cẩn thận, tỉ mỉ trong việc chăm sóc con; cầu kỳ trong việc nuôi dưỡng, cho con ăn uống... Yếu tố tạo điều kiện thuận lợi hoặc thúc đẩy để hội chứng trầm cảm này phát triển là người mẹ còn quá trẻ, thường trên dưới 20 tuổi hoặc người mẹ đã từng bị chồng và gia đình bỏ rơi, bỏ mặc, không được quan tâm, bị đối xử tàn tệ, thiếu thốn tình cảm trong thời thơ ấu...

Rối loạn tâm thần muộn sau sinh

Các rối loạn tâm thần xuất hiện muộn sau lúc người mẹ sinh đẻ thường nặng, có những biểu hiện cấp tính, mang tính chất bệnh lý rõ ràng và có liên quan tới số lần sinh đẻ. Thực tế có khoảng 1/3 số người mẹ bị rối loạn tâm thần loại này có biểu hiện loạn thần trước đó. Những biểu hiện lâm sàng thường gặp gồm: loạn thần với lú lẫn và mê mộng, hưng cảm điển hình sau sinh, cơn trầm cảm nặng sau sinh, trạng thái giống phân liệt.

Loạn thần với lú lẫn và mê mộng:

Trạng thái bệnh lý này khởi đầu đột ngột, rõ đặc biệt ở tuần thứ 2 sau sinh với biểu hiện rất đa dạng như: lo âu, kích động, có cơn chảy nước mắt; có khi hung hãn, tấn công; có khi lại nằm mệt lừ, lú lẫn, tri giác suy giảm, không nhận thức rõ vào không gian và thời gian; có khi mê mộng, lo lắng... Đồng thời cũng có biểu hiện hoang tưởng tập trung vào đứa con như: phủ định sự sinh nở, phủ định đời sống của trẻ; sợ con bị đói, bị chết; phủ định vai trò của người cha, cho rằng trẻ sinh ra Không nhất thiết cha. Cũng có thể có trạng thái hoang tưởng tập trung vào người mẹ như: cảm thấy bản thân mình bị đe dọa, bị bắt buộc phải uống thuốc độc, thuốc ngủ; lo sợ điều xấu sẽ đến. Ngoài ra, trạng thái lo sợ có thể diễn biến dai dẳng, nặng nề có khả năng dẫn tới hành động tự sát hoặc giết con. Tuy vậy, trạng thái loạn thần với lú lẫn và mê mộng có thể tiến triển thuận lợi nếu được phát hiện, điều trị đúng và kịp thời nhưng dễ tái phát trong thời gian ngắn.

Hưng cảm điển hình sau sinh:

Trạng thái hưng cảm điển hình sau sinh khởi đầu ồ ạt, diễn ra sớm trong vòng 2 tuần sau khi người mẹ sinh con. Người mẹ có thể bị kích động mất định hướng nặng, có hiện tượng ý tưởng hoang tưởng đầy quyền lực thực hiện sứ mạng của thượng đế. Đồng thời có thể xen lẫn cảm giác bị truy hại hoặc có xung đột thỏa dục.

Cơn trầm cảm nặng sau sinh:

Một số trường hợp có thể gặp người mẹ có cơn trầm cảm nặng sau sinh với cơn khởi đầu cấp diễn, xảy ra sau lúc sinh hai tuần hoặc trong khoảng 3 tháng đầu sau đẻ. Cơn trầm cảm nặng thường kèm theo trạng thái lo âu, bối rối, lú lẫn, khí sắc dao động; có cảm giác bất lực, cảm giác có tội.

Người mẹ sau sinh mắc trầm cảm điển hình có những biểu hiện lâm sàng như: cảm xúc dễ thay đổi, dễ nổi cáu giận, có dấu hiệu suy nhược...

Người mẹ sau sinh mắc trầm cảm điển hình có những biểu hiện lâm sàng như: cảm xúc dễ thay đổi, dễ nổi cáu giận, có dấu hiệu suy nhược...

Trạng thái giống phân liệt:

Đây là trạng thái loạn thần có đặc điểm nổi bật là tính thiếu hòa hợp, bệnh lý khởi đầu đột ngột với các triệu chứng kích động, nhiều hoang tưởng, không có sự hòa nhập, mất tiếp xúc với thực tại... Cũng có khi bệnh lý khởi đầu bằng cảm giác tự kỷ, tác phong dị kỳ, không quan tâm tới đứa con sinh ra. Trạng thái giống phân liệt này thường gặp ở những người mẹ trong tiền sử có nhân cách cứng nhắc hoặc nhân cách dạng phân liệt, phải theo dõi lâu dài mới có thể chẩn đoán được chính xác. Ngoài ra, trạng thái giống phân liệt có thể là cơn trước tiên của bệnh lý loạn thần chu kỳ hưng trầm cảm, có thể đó là đường về của bệnh phân liệt. Trạng thái này rất dễ có nguy cơ tái phát ở người mẹ trong những lần sinh đẻ sau.

Xử trí điều trị rối loạn tâm thần sau sinh

Một điều cần lưu ý là gần như toàn bộ các loại thuốc hướng thần được sử dụng để điều trị tình trạng rối loạn tâm thần sau khi sinh cho những người mẹ đều được đào thải qua sữa mẹ nên việc điều trị gặp nhiều khó khăn đặc biệt trường hợp người mẹ cho con bú, vì vậy phải ngừng và chấm dứt việc cho con bú sữa mẹ để khỏi ảnh hưởng đứa con. Bệnh nhân cần phải đưa đến khám bệnh ở các bác sĩ chuyên khoa để có sự chẩn đoán và điều trị phù hợp. Rối loạn tâm thần thời kỳ sau sinh của người mẹ có thể liên quan đến tiền sử gia đình.

Lời khuyên của thầy thuốc

Nguyên nhân gây nên bệnh lý rối loạn tâm thần thời kỳ sau sinh của người mẹ có thể liên quan tới tiền sử gia đình, có mẹ hoặc người thân thuộc bị mắc bệnh tâm thần và các yếu tố cá nhân có tác động ảnh hưởng như người mẹ chưa trưởng thành về mặt nhân cách, chưa có sự chuẩn bị về tâm lý để có con và sinh con; cũng có thể có sự đánh tráo vào nội tiết tố, bị tai biến thương tổn hoặc các biến chứng sản khoa... Do đó, trên lâm sàng cần lưu ý tới các trường hợp này để phát hiện, chẩn đoán sớm và xử trí điều trị thích hợp vì bệnh thường diễn ra sớm, đột ngột ngay sau lúc sinh hoặc vài ngày sau lúc sinh. Những trường hợp rối loạn tâm thần xuất hiện muộn sau sinh cũng diễn ra nặng và có biểu hiện cấp tính với nhiều dạng bệnh lý không như nhau cần chú ý.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

Dấu hiệu cảnh báo sớm cơn đau tim không nên bỏ qua

Dấu hiệu cảnh báo sớm cơn đau tim không nên bỏ qua

 

Các nhà khoa học từ ĐH Hoàng gia London đã theo dõi tình trạng nhập viện và tử vong vì đau tim tại Anh từ năm 2006 tới năm 2010. Họ phát hiện thấy rằng 16% những người tử vong vì đau tim trong vòng 28 ngày nhập viện không được chẩn đoán bị bệnh tim, mặc dù những người này có những dấu hiệu cảnh báo như đau ngực.

Theo các nhà nghiên cứu, các triệu chứng như ngất xỉu, thở nhanh và đau ngực diễn ra trong một tháng trước lúc 1 số bệnh nhân tử vong. Họ cho rằng các bác sĩ có thể đã bỏ qua những triệu chứng gợi ý một cơn đau tim nguy hiểm trong tương lai vì không có những tổn thương tim rõ rệt tại thời điểm đó.

Tác giả chính của nghiên cứu, TS  Perviz Asaria cho biết: “Các bác sĩ rất nhiều năm kinh nghiệm trong điều trị đau tim lúc chúng là nguyên do chính gây nhập viện, nhưng họ không chuyên nghiệp điều trị các cơn đau tim thứ phát hoặc phát hiện những dấu hiệu tinh vi chỉ báo cơn đau tim chết người lâu dài gần.

Giáo sư Jeremy Pearson, Phó Giám đốc của Hội Tim mạch Anh cho biết: "Nghiên cứu này cho thấy một số lượng to những người tử vong vì chứng đau tim đã đến bệnh viện trong tháng trước, nhưng không được chẩn đoán bị bệnh tim”.

"Sự thất bại trong việc phát hiện các dấu hiệu cảnh báo là đáng lo ngại và những kết quả này sẽ khiến các bác sĩ phải thận trọng hơn, giảm nguy cơ bỏ qua các triệu chứng và cuối cùng là cứu sống được nhiều người hơn".

Các triệu chứng đau tim khác nhau tại mỗi người. Nhưng các dấu hiệu phổ biến nhất của một cơn đau tim là:

• Đau ngực: co thắt, nặng, đau hoặc cảm giác nóng bỏng ở ngực

• Đau ở cánh tay, cổ, hàm, lưng hoặc dạ dày: đối với một số người, đau hoặc co thắt là nghiêm trọng, trong khi những người khác cảm thấy khó chịu.

• Ra mồ hôi

• Hụt hơi

• Cảm thấy buồn nôn hoặc nôn

Và đây là 1 số dấu hiệu ít được biết tới hơn:

• Cảm giác bất an

• Ho hoặc thở khò khè

• Ngất xỉu

BS Thu Vân

(theo Univadis/MSN)

Thai phụ hút thuốc, tổn hại gan thai nhi

Các nhà khoa học dùng tế bào gốc đa năng - tế bào có khả năng biến thành các dạng tế bào khác - đang trong tiến trình cấu thành mô gan của bào thai. Tế bào của mô gan đang hình thành được cho phơi nhiễm với các hóa chất phát hiện trong khói thuốc lá, như vậy như bào thai có mẹ hút thuốc lá. Các nhà khoa học đã thu thập được bằng chứng cho thấy các hỗn hợp hóa chất đó gây tác hại cho sự phát triển lành mạnh của gan thai nhi. Hóa chất từ thuốc lá tác hại lên bào thai nam và nữ 1 cách khác nhau. Trong đó làm cho mô gan của thai nhi nam hình thành sẹo, trong khi mô gan thai nhi nữ bị tổn hại về chuyển hóa tế bào.

Vũ Lê

((Theo Archives of Toxicology, 6/2017))

Bạn có nguy cơ bị thiếu máu?

nguy cơ thiếu máu

Những người có nguy cơ cao bị thiếu máu là phụ nữ tại độ tuổi sinh đẻ hoặc phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, không chỉ phụ nữ có nguy cơ cao bị thiếu máu, trên thực tế, những người có chính sách dinh dưỡng kém, nhất là là chính sách ăn thiếu sắt cũng có nguy cơ bị thiếu máu. Nếu bạn hiến máu thường xuyên, bạn cũng có thể có nguy cơ vì hiến máu thường xuyên cũng có thể ảnh hưởng tới việc sản xuất máu. Nguy cơ thiếu máu cũng cao tại trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đặc biệt là những trẻ sinh non hoặc đang trải qua giai đoạn nâng cao trưởng nhảy vọt. Nếu bạn là người ăn chay và không ăn nhiều thực phẩm chứa sắt (hoặc thay thế thịt với những thực phẩm chứa sắt) thì nguy cơ bị thiếu máu cũng tăng.

Mặc dù thiếu máu do thiếu sắt và mang thai là 2 trong số những nguyên nhân lớn nhất gây thiếu máu nhẹ và trung bình, 1 số trường hợp thiếu máu nặng có thể có những nguyên nhân nghiêm trọng ẩn dưới. Những nguyên do này gồm các bệnh như thalassemia beta, thiếu máu đa bào và các bệnh mạn tính khác.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 8,4% các mẫu máu báo hiệu bệnh beta thalassemia, một rối loạn di truyền nghiêm trọng, là nguyên nhân gây thiếu máu. Trong những trường hợp này, các xét nghiệm sàng lọc trở nên quan trọng vì bệnh mang tính di truyền và trẻ bị beta thalassemia có thể không phát triển bình thường. Do dó, mỗi phụ nữ cần sáng lọc và tư vấn bác sĩ nếu như có các triệu chứng thiếu máu.

BS Thu Vân

(theo Univadis/THS)

Chóng mặt

Rối loạn tiền đình càng ngày càng trở thành phổ biến hơn, bệnh có thể gặp tại nhiều lứa tuổi. Tuy nhiên, rối loạn tiền đình là triệu chứng rất mơ hồ, nhiều người khi bị chóng mặt thường được bác sĩ chẩn đoán bị rối loạn tiền đình. Tuy nhiên, vì sao bị bệnh có nhiều trường hợp chưa xác định được, vì vậy việc chữa trị không hiệu quả.

Đa số bệnh nhân bị rối loạn tiền đình ngoại biên

Có 2 loại rối loạn tiền đình là rối loạn tiền đình ngoại biên và rối loạn tiền đình trung ương. Trong đó, 90-95% bệnh nhân bị rối loạn tiền đình ngoại biên, còn lại là rối loạn tiền đình trung ương. Rối loạn tiền đình ngoại biên có đặc điểm khởi phát đột ngột, triệu chứng hay gặp đặc biệt chóng mặt, cơn chóng mặt thường ngắn, diễn ra lúc đánh tráo tư thế đầu, tư thế nằm, ngồi; thường mắc phải sau chấn thương đầu, viêm mê đạo (thuộc vùng ốc tai) do siêu vi, tắc mạch máu ở vùng sau cổ.

Nguyên nhân của rối loạn tiền đình ngoại biên gồm có: viêm thần kinh tiền đình do siêu vi gây ra, viêm tiền đình, bệnh meniere, viêm mê nhĩ, rò ngoại dịch, u dây thần kinh 8, dị vật ống tai ngoài, viêm tai giữa cấp.

Còn rối loạn tiền đình trung ương khởi phát từ từ hoặc đột ngột với cường độ trung bình nhưng kéo dài có khi vài tuần hoặc vài tháng. Đây là bệnh lý thường gặp nhất với những biểu hiện của tình trạng thiểu năng tuần hoàn não. Khi mắc bệnh, người bệnh thường đi đứng khó khăn, lúc đánh tráo tư thế hay bị choáng váng, chóng mặt, đôi lúc khó tập trung, mau quên, thỉnh thoảng kèm theo nôn ói. Rối loạn tiền đình trung ương là do có sự tổn thương nhân tiền đình, tổn thương đường liên hệ của các nhân dây tiền đình ở thân não, tiểu não.

Ở giai đoạn đầu, các triệu chứng của bệnh thường nhẹ như mất ngủ, người mệt mỏi, vì thế ít bệnh nhân để ý điều trị bệnh. Thời gian sau, những người bị rối loạn tiền đình sẽ thấy mọi vật xung quanh nhưng sẽ có cảm giác không bình thường, trở mình thấy lao đao, ngồi dậy khó khăn, nhất là vào buổi đêm về sáng. Nhiều người bị mất thăng bằng, dễ ngã, thậm chí nếu như cơn nặng, họ chỉ nằm được ở 1 tư thế, không ngồi dậy nổi, buồn nôn và có thể nôn dữ dội gây mất nước, điện giải, mở mắt ra sẽ thấy mọi vật quay cuồng, đảo lộn. Nguyên nhân của rối loạn tiền đình trung ương thường gặp nhất là Migraine, nhiễm trùng não, suy động mạch cột sống thân nền, xuất huyết não, nhồi máu não, chấn thương, u não, xơ cứng rải rác.

Cấu tạo cơ quan tiền đình.

Phụ nữ dễ mắc chứng rối loạn tiền đình

Rối loạn tiền đình là bệnh thường gặp ở phụ nữ, hay xảy ra tại người yếu tâm lý, tâm lý không ổn định, hay hoảng hốt, lo sợ. Đối với phụ nữ trong độ tuổi tiền mãn kinh (45 tuổi trở lên) cũng dễ bị rối loạn tiền đình. Những người về hưu cũng bị rối loạn tiền đình rất nhiều, nhất là là những người có chức lúc còn đang làm việc.

Nguyên nhân là do đang từ môi trường làm việc sôi động, năng nổ sang môi trường về hưu buồn tẻ, đơn điệu nhưng chưa kịp chuẩn bị tâm lý nên người về hưu rất dễ bị stress (căng thẳng thần kinh), chóng mặt, ù tai, nghe kém và có biểu hiện của rối loạn thần kinh thực vật như tim đập nhanh, mặt tái mét, lo âu, hoảng hốt, sợ hãi.

Rối loạn tiền đình điều trị có khó?

Rối loạn tiền đình là một hội chứng, không phải là một bệnh lý nên không có thuốc điều trị đặc hiệu. Cần phải tìm nguyên nhân gây ra hội chứng này để điều trị căn nguyên, do vậy, ở nhiều trường hợp không tìm được nguyên do thì việc điều trị phát triển thành khó khăn. Còn đối với các bệnh nhân chẩn đoán được căn nguyên rõ ràng thì bác sĩ sẽ có hướng điều trị thích hợp. Điều trị rối loạn tiền đình ngày nay chính yếu là điều trị nội khoa và hoàn toàn phải do bác sĩ chỉ định vào chế độ thuốc men và thời gian, tuyệt đối người bệnh không được tự ý điều trị hoặc không tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ, có như thế mới có thể đạt được hiệu quả điều trị và đề phòng bệnh tái phát, đặc biệt với rối loạn tiền đình ngoại biên.

Trong mọi trường hợp, lúc diễn ra chóng mặt cấp tính, triệu chứng hay gặp của hội chứng tiền đình cần phải điều trị triệu chứng vì cho dù các cơn chóng mặt có thể tự khỏi nhưng bệnh nhân rất khó chịu và sợ hãi vì các triệu chứng này. Cần lưu ý, với người bị rối loạn tiền đình, không nên cách ly môi trường làm việc vì càng cách ly môi trường làm việc thì càng chóng mặt nhiều hơn, thậm chí còn bị ù tai, hoa mắt, lảo đảo, tâm trí rối loạn. Cách tốt nhất là tránh làm việc quá sức để tránh bị rơi vào stress.

Dự bộ phận thế nào?

Bên cạnh việc tập thể dục đều đặn, người bệnh cần điều chỉnh các thói quen, lối sống như: không ngồi thường xuyên quá lâu, hạn chế uống rượu, cà phê, thuốc lá; tránh tiếp xúc với các chất liệu hoặc thực phẩm có mùi vị kích thích; tránh trảo đổi tư thế đột ngột; không lái xe hoặc điều khiển máy móc có động cơ mạnh; hạn chế căng thẳng, lo âu, hoảng hốt... Đối với người làm việc văn phòng, cần tránh ngồi quá lâu trước máy vi tính. Uống nước thường xuyên khoảng 2 lít/ngày, nên để cốc nước lọc trên bàn làm việc để tập thói quen uống nước thường xuyên, tránh để quá khát mới uống nước. Thường xuyên thực hiện các bài tập vận động vùng đầu, cổ gáy. Tập đẩy hơi vào 2 tai bằng cách dùng 2 bàn tay áp về hai bên tai mỗi ngày 50 - 100 lần.

Khi bệnh nhân đã mắc hội chứng rối loạn tiền đình thì phải cẩn trọng trong tư thế sinh hoạt như không nên quay cổ 1 cách đột ngột hoặc đứng lên, ngồi xuống quá nhanh. Tuy nhiên, ví dụ thấy 1 trong những triệu chứng: cơn nhức đầu đột ngột; mờ mắt, nhìn sự vật không rõ; giảm thính giác; mất định hướng với không gian và thời gian; nói khó khăn; tay chân run rẩy, yếu; bất tỉnh nhân sự; cảm thấy lảo đảo muốn té ngã; thấy tê dại các đầu ngón chân tay; đau ngực hoặc nhịp tim nhanh chậm bất thường thì ngay tức khắc tới trung tâm y tế để được bác sĩ giải đáp và điều trị vì các dấu hiệu đó có thể báo hiệu các bệnh nặng như tai biến động mạch não, u bướu não…

BS. Hoàng Ngọc

Các dấu hiệu sớm cảnh báo các bệnh về thận

Các dấu hiệu sớm cảnh báo các bệnh vào thận

Thận là một cơ quan quan trọng, thực hiện nhiều quy trình cần thiết của cơ thể. Hai chức năng nhu yếu nhất của thận là làm sạch và đào thải độc tố khỏi cơ thể nhờ quy trình tạo nước tiểu và lọc máu.

Chất thải và chất dịch dư thừa sẽ tích tụ trong thận nếu thận hoạt động bất bình thường. Điều này có thể dẫn tới 1 số biến chứng về sức khoẻ. Dưới đây là những dấu hiệu cảnh báo thận không hoạt động tốt:

1.Mệt mỏi

Thận sản xuất hormone erythropoietin làm nâng cao số lượng hồng cầu. Số lượng các tế bào hồng cầu thấp có thể dẫn tới sự mệt mỏi cũng như các vấn đề về não và cơ.

2. Đau

Đau cấp tính ở khu vực xung quanh thận là 1 triệu chứng điển hình của sỏi thận, nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc các bệnh liên quan đến thận khác mà bạn không nên bỏ qua.

3.Chóng mặt, kém tập trung

Suy thận có thể dẫn tới thiếu oxy não gây chóng mặt, các khiếu nại vào trí nhớ và kém tập trung. Đây là một trong những dấu hiệu sớm cảnh báo suy thận.

4. Mùi vị kim loại trong miệng

Do quá trình tích tụ chất thải trong máu nên bệnh nhân có thể bị hôi miệng và thay đổi vị giác. Bệnh nhân cũng có thể thấy miệng có vị kim loại.

5. Phát ban da

Việc tích tụ chất thải có thể trực tiếp gây ra ngứa và phát ban da. Do sự tích tụ chất thải trong máu, da có thể bị kích thích và khô. Nếu bạn sử dụng các loại kem bôi ngoài da mà không có hiệu quả thì khiếu nại có thể ở bên trong cơ thể.

6. Khó thở

Giảm lượng hồng cầu có thể làm giảm lượng oxy trong cơ thể dẫn đến khó thở. Điều này thường liên quan đến tổn thương thận. Đây là 1 trong những triệu chứng hàng đầu của suy thận bạn nên lưu ý.

7.Sưng

Thận hoạt động bất thường, các chất dịch dư thừa có xu hướng tích tụ trong cơ thể. Điều này có thể dẫn đến sưng khớp, chi và mặt.

8. Thay đổi nước tiểu

Một số triệu chứng phổ biến nhất bao gồm nước tiểu sẫm màu (đi tiểu với lượng nhỏ, tiểu ít thường xuyên hơn), nước tiểu có màu xám (đi tiểu nhiều, đi tiểu thường xuyên), nước tiểu có bọt, đi tiểu suốt đêm, khó tiểu tiện.

BS. Tuyết Mai

(theo Univadis/Boldsky)

Triệu chứng bé bị sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết (SXH), sốt xuất huyết Dengue là bệnh lưu hành quanh năm tại Việt Nam nhưng thường tăng cao từ tháng 6 tới tháng 11, đặc biệt ở các tỉnh/thành phía Nam ở nước ta bệnh có xu hướng phổ biến khi mùa mưa đến. Báo cáo từ Cục Y tế dự bộ phận - Bộ Y tế cho biết, hơn 85% các trường hợp SXH Dengue và 90% những trường hợp tử vong xảy ra tại các tỉnh phía Nam của Việt Nam, trong đó khoảng 90% các trường hợp tử vong do sốt xuất huyết Dengue xảy ra ở trẻ em dưới 15 tuổi.

Những triệu chứng phổ biến tại trẻ bị bệnh SXH

Sốt xuất huyết là bệnh do vi rút gây ra, phần to bệnh nhi có thể tự hồi phục nếu như được chăm sóc tốt và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, hiện nay cũng còn khoảng 25% số bệnh nhân có biến chứng sốc, xuất huyết tiêu hóa, nhất là tỉ lệ tử vong ở những bệnh nhân bị biến chứng sốc là khoảng 2 - 3%. Việc phát hiện sớm bệnh SXH tại trẻ em cần chú ý những dấu hiệu sau đây:

- Trẻ em thường khởi phát bệnh với sốt cao đột ngột, trước đó trẻ hoàn toàn khỏe mạnh, thời gian sốt từ hai - 7 ngày, kèm những biểu hiện như đỏ bừng mặt, da sung huyết, đau nhức cơ, đau khớp, đau đầu. Trong một số trường hợp, trẻ có thể kèm đau họng, viêm kết mạc mắt, mệt mỏi, buồn nôn và nôn. Vào thời điểm này, những triệu chứng của bệnh thường không đặc hiệu, không thể phân biệt với nhiễm các loại virút khác.

- Tiếp sau đó, trẻ có thể biểu hiện dấu hiệu xuất huyết như: chấm xuất huyết, còn gọi là petechiae (những chấm đỏ không biến mất lúc ấn vào) thường ở cẳng tay, cẳng chân, nách, ngực, thắt lưng; xuất huyết niêm mạc như chảy máu mũi (chảy máu cam), chảy máu răng, đi cầu ra máu. Ở nữ tuổi dậy thì có thể xuất huyết âm đạo. Những triệu chứng xuất huyết này ít xảy ra vào những ngày đầu. Gan có thể to sau một vài ngày. Xét nghiệm công thức máu vào thời gian này, kết quả cho thấy giảm bạch cầu, đó là dấu hiệu cảnh báo khả năng SXH Dengue.

- Từ ngày thứ 3 - 7 của bệnh, trẻ giảm sốt hoặc hết sốt hẳn với những biểu hiện hồi phục dần dần như trẻ tỉnh táo, ăn uống ngon miệng, tiểu nhiều…Tuy nhiên phụ huynh cần hết sức lưu ý, có một số bệnh nhi có hiện tượng các dấu hiệu trở nặng, những trường hợp này cần cho trẻ nhập viện ngay để điều trị tích cực hơn.

- Một số trường hợp có thể diễn tiến đến sốc SXH rất nguy hiểm cho trẻ. Một số trường hợp biểu hiện tổn thương các cơ quan nội tạng như viêm gan nặng, viêm não, viêm cơ tim hoặc xuất huyết trầm trọng, có thể kèm hoặc không kèm theo tình trạng cô đặc máu và sốc.

Thông điệp bộ phận ngừa bệnh SXH từ Bộ Y tế

Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát tỉ lệ tử vong do bệnh SXH Dengue. Từ năm 2005 tới nay, tỉ lệ tử vong do bệnh SXH Dengue là dưới 1/1.000 trường hợp. Tuy nhiên, kết quả phòng chống để giảm số trường hợp mắc SXH cũng còn hạn chế, đặc biệt chu kỳ bệnh SXH thường từ 3 - 5 năm. Thông điệp bộ phận chống bệnh SXH được khuyến cáo như sau:

- Mọi gia đình hãy đậy kín toàn bộ các dụng cụ chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng nhằm ngăn chặn bệnh SXH.

- Hãy thả cá về các lu, chum, vại, bể chứa nước để diệt bọ gậy (lăng quăng), phòng chống SXH.

- Lật úp các dụng cụ chứa nước và gặt đi các nguyên liệu phế thải để loại trừ bọ gậy, bộ phận chống SXH.

ThS.BS. ĐINH THẠC

Dinh dưỡng cho trẻ dị ứng đạm sữa bò

Theo thông tin từ Viện Dinh dưỡng Lâm sàng, cứ 100 trẻ thì có 2-3 trẻ bị dị ứng đạm sữa bò. Tỷ lệ này cao hơn đối với trẻ không được bú sữa mẹ và trẻ có bố mẹ có tiền sử dị ứng.

(Không ít phụ huynh cảm thấy lạ lẫm lúc nghe về hiện tượng dị ứng đạm sữa bò) (ảnh minh hoạ)

Chị Phương Linh (31 tuổi, Hà Nội) chia sẻ: “Bé nhà mình sắp hai tuổi, gần đây mình Tiến hành cho cháu sử dụng sữa bò, ngay lúc uống lần đầu tiên đã thấy cháu có biểu hiện nôn trớ, nổi ban đỏ và tiêu chảy nhẹ nên mình dừng lại ngay. Đưa con đi khám thì gia đình rất bất ngờ vì con bị dị ứng đạm sữa bò. Đây là lần đầu tiên mình nghe về triệu chứng này”.

Không chỉ chị Linh mà còn phần nhiều bậc phụ huynh khác tỏ ra bất ngờ khi nghe vào hiện tượng dị ứng đạm sữa bò. Tuy nhiên, đây lại là 1 trong những loại dị ứng thức ăn phổ biến nhất ở trẻ nhỏ.

Theo Thầy thuốc ưu tú, Thạc sĩ, Bác sĩ Doãn Thị Tường Vi – Viện phó Viện dinh dưỡng lâm sàng, nguyên nhân chủ yếu gây nên hiện tượng dị ứng sữa bò là do hệ thống miễn dịch của trẻ phản ứng quá mức với lượng protein trong sữa. Khi bé uống sữa, hệ thống miễn dịch của cơ thể nhầm các protein là các kháng thể lạ gây hại cho cơ thể nên bắt đầu hoạt động để chống lại chúng.

Phải làm sao khi trẻ bị dị ứng đạm sữa bò?

Trẻ dị ứng đạm sữa bò nếu như bị nhẹ sẽ có các biểu hiện như ói mửa, thở khò khè, nổi ban đỏ, mặt sưng phù. Còn nặng hơn là phản ứng phản vệ toàn thân như tiêu chảy, nôn trớ, đầy hơi, chậm nâng cao cân, nếu không xử lý kịp thời có thể dẫn tới tử vong. Chính vì vậy, khi trẻ có những triệu chứng như trên sau khi uống sữa, cha mẹ cần đưa bé đến ngay các bệnh viện gần nhất để được khám và điều trị kịp thời.

Nếu các bác sĩ chẩn đoán và xác tiếp nhân bé bị dị ứng với đạm sữa bò thì cha mẹ phải gặt đi sữa bò ngay khỏi chế độ ăn của bé. Những thực phẩm được chế biến từ sữa như bơ, phomai, sữa chua… cũng cần đưa về danh sách thực phẩm cần hạn chế.

Trẻ dị ứng đạm sữa bò nên được bú sữa mẹ hoàn toàn càng lâu càng tốt. Với các bé sử dụng sữa ngoài, cần chọn sang loại sữa khác như sữa công thức thủy phân một phần hoặc hoàn toàn, sữa đậu nành, sữa dê, sữa gạo...

Sữa dê – giải pháp cho trẻ dị ứng đạm sữa bò

Một trong những giải pháp cho trẻ dị ứng sữa bò là sữa dê. Bởi sữa dê có trị giá dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa và có nguy cơ dị ứng thấp.

Kích thước phân tử đạm sữa dê nhỏ, lúc vào dạ dày tạo thành mảng đông tụ nhỏ và mềm mại nên dễ tiêu hóa hơn đạm sữa bò. Đặc biệt, nếu như trong đạm của sữa, αs1-Casein được cho là liên quan nhiều tới tình trạng dị ứng thì thành phần αs1-Casein trong sữa dê thấp hơn hẳn. Vì vậy, khả năng gây dị ứng cho trẻ tại sữa dê là rất thấp.

Khi đổi sang cho con dùng sữa dê, cha mẹ cần thử dần với lượng từ ít tới nhiều, xem phản ứng của bé thế nào. Nếu bé không có dấu hiệu nào của dị ứng mới duy trì cho bé uống tiếp. Còn nếu bé vẫn dị ứng với sữa dê thì cha mẹ cần gặp bác sĩ để được hỗ trợ tư vấn dùng những thực phẩm dinh dưỡng khác cho con.

(Một trong những giải pháp cho trẻ dị ứng sữa bò là sữa dê) (ảnh minh hoạ)

Để chọn lựa loại sữa dê tốt cho trẻ, cha mẹ cần cân nhắc và tìm hiểu rõ nguồn gốc xuất xứ của sữa. Một trong những thương hiệu hiện được các chuyên gia đánh mức chi phí cao và được nhiều bà mẹ tin dùng là sữa dê Dairygoat.

Đây là sản phẩm sử dụng vật liệu cao cấp, nhập khẩu từ Hà Lan, có thành phần dinh dưỡng cân bằng và rất tốt cho hệ tiêu hóa của trẻ. Hệ chất xơ kép Synergy1 (FOS/Inulin) giúp bộ phận chống táo bón, hỗ trợ tiêu hóa và nâng cao cường hệ miễn dịch đường ruột. Thành phần chất béo chuỗi trung bình MCT giúp trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, song song giàu canxi nên tốt cho quá trình tăng trưởng và phát triển của trẻ.

Sữa dê DairyGoat thích hợp tiêu chuẩn CODEX (tiêu chuẩn Châu u) và tiêu chuẩn của FDA (Mỹ) về dinh dưỡng công thức bổ sung cho trẻ.

Dairygoat nâng cao cường Lysine: 1 acid amin giúp nâng cao cường hấp thu và chuyển hóa calci trong cơ thể, giúp bé ăn ngon miệng đồng thời góp phần thúc đẩy nâng cao trưởng cho trẻ đặc biệt là nâng cao trưởng xương.

Xem chi tiết ở website hoặc facebook.

Chè vằng

Chè vằng đã được dân gian biết đến từ rất lâu

Chè Vằng được nhiều người tin sử dụng từ xưa vì có tác dụng thanh nhiệt , giải độc cơ thể .Đặc biệt phụ nữ sinh con uống chè vằng liên tục giúp nâng cao tuyến sữa , duy trì nguồn sữa và chống viêm tuyến sữa .

Nghiên cứu dược lý chứng minh lá chè vằng có chứa alcaloid, nhựa, flavonoid, có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, làm nâng cao nhanh tái tạo tổ chức, làm mau lành vết thương và không độc. Bộ phận dùng làm thuốc là cành, lá tươi hoặc cành, lá phơi sấy khô, thu hái quanh năm.

Tác dụng đặc biệt của chè vằng đối với phụ nữ sau sinh cũng được kiểm nghiệm nhờ thành phần Terpenoid và Glycosid giúp tăng tiết sữa. Là thuốc bổ đắng dùng tốt cho phụ nữ đẻ, chè vằng cũng có thể trị nhiễm khuẩn sau đẻ, viêm hạch bạch huyết, viêm tử cung, viêm tuyến sữa, bế kinh, khí hư, thấp khớp, nhức xương, Chữa rắn cắn

Cây chè vằng đã được giáo sư Đỗ Tất Lợi ghi trong quấn sách "những cây thuốc và vị thuốc việt nam" cây có tác dụng lợi sữa, tốt cho tiêu hóa, giúp ăn ngon ngủ tốt, chữa tắc tia sữa.

Bên cạnh đó Chè Vằng kết hợp cùng Thông Thảo sẽ giúp cho các tuyến sữa thông tăng tác dụng lợi sữa .

Thực phẩm bảo vệ sức khỏe: CHÈ VẰNG – LỢI SỮA KINGPHAR

Thành phần cấu tạo:

Mỗi viên nén bao phim chứa:

- Chè vằng(Jasminum subtriplinerve Blume) - Hoàng kỳ( Radix Astragali) - Đương quy (Anglelica Sinensis Diels) - Thông Thảo (Tetrapanax papiriferus ) - Thục địa(Radix Rehmanniae preparata)g - Xuyên khung (Ligusticum wallichii Franch) Phụ liệu: Talc, magie stearat vừa đủ một viên

Công dụng:

Giúp lợi sữa, kích thích tuyến sữa.

Đối tượng sử dụng: : Phụ nữ cho con bú thiếu sữa, ít sữa tắc tia sữa.

Lưu ý: Không dùng cho phụ nữ đang mang thai

Cách dùng:

Ngày uống hai lần mỗi lần 2 viên với 1 cốc nước ấm. Uống trước khi ăn hoặc trước khi cho con bú 1-2giờ.

Nên sử dụng liên tục, hiệu quả sản phẩm phát huy tốt nhất khi người mẹ vẫn ăn uống và ngủ đầy đủ, cho con bú nhiều lần trong ngày

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Số GPQC: 1886/2015/XNQC-ATTP

Chăm sóc bệnh nhân bị tiêu chảy

Mỗi khi mùa mưa lũ tới người dân quê tôi lại phải chống chọi với dịch bệnh, đặc biệt dịch tiêu chảy. Tôi đọc sách thấy nói, khi bị tiêu chảy việc cần thiết là phải bù nước, ăn ít đi. Xin hỏi có đúng không?

Hoàng An (Lào Cai)

Khi bị tiêu chảy, cơ thể mất nước và mất điện giải do đó cái cấp thiết đặc biệt phải tìm cách bù nước. Nước để bù tốt nhất là dung dịch oresol được pha đúng liều lượng hướng dẫn. Dung dịch oresol được bán hầu hết ở các nhà thuốc. Khi đang bị tiêu chảy, “ăn ít nhưng ăn nhiều bữa” thức ăn mềm dễ tiêu (cháo, súp) và bù đủ nước (uống theo nhu cầu) nhưng không uống nước ngọt đóng hộp.

Nhiều người lúc tiêu chảy lại chỉ ăn cơm với muối trắng, cháo muối hay cháo đường. Điều này là sai lầm vì như thế sẽ khiến cơ thể nhanh nhất suy dinh dưỡng, giảm khả năng lành bệnh và chống đỡ sự tấn công của những loại vi khuẩn khác. Bệnh nhân tiêu chảy vẫn cần ăn đủ chất và năng lượng: đạm, khoáng chất, vitamin... từ thịt, cá, trứng, đậu sẽ giúp niêm mạc ruột mau hồi phục. Trẻ đang bú mẹ cần tiếp diễn bú vì sữa mẹ đem tới nước, điện giải, chất dinh dưỡng cùng những yếu tố chống bệnh; vẫn tiếp diễn ăn và uống sữa bình thường, không pha loãng nhưng nên chia nhỏ bữa ăn.

Thực phẩm cần tránh là những loại nhiều chất xơ, thực phẩm chứa nhiều đường (nước ngọt, nước trái cây, mật ong, kẹo bánh ngọt...). Nên ăn sữa chua làm giảm thời gian và độ nặng của đợt tiêu chảy, do quá trình lên men đã chuyển phần lớn đường lactose (loại đường khó hấp thu) trong sữa bò sang một dạng dễ hấp thu hơn. Ngoài ra, 1 số chủng vi khuẩn trong sữa chua có khả năng ức chế sự phát triển và gây bệnh của các vi sinh vật có hại trong đường tiêu hóa, nâng cao cường hoạt động của hệ thống miễn dịch.

BS. Văn Bàng